Bước tới nội dung

HMS Trumpeter (D09)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
HMS Trumpeter
Tàu sân bay hộ tống HMS Trumpeter
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Bastian
Xưởng đóng tàu Seattle-Tacoma Shipbuilding Corporation, Tacoma, Washington
Đặt lườn 25 tháng 8 năm 1942
Hạ thủy 15 tháng 7 năm 1942
Số phận chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Trumpeter
Nhập biên chế 4 tháng 8 năm 1943
Xuất biên chế 19 tháng 7 năm 1946
Đổi tên
  • Alblasserdijk
  • Irene Valmas
Số phận
  • Bán để hoạt động dân sự
  • tháo dỡ năm 1971
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Ameer
Trọng tải choán nước 7.800 tấn
Chiều dài 151 m (495 ft 7 in)
Sườn ngang 21,2 m (69 ft 6 in)
Mớn nước 7,9 m (26 ft)
Công suất lắp đặt 8.500 mã lực (6,3 MW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 34,2 km/h (18,5 knot)
Thủy thủ đoàn 890
Vũ khí
Máy bay mang theo 28
Hệ thống phóng máy bay 2 × thang nâng

HMS Trumpeter (D09), nguyên là tàu sân bay hộ tống USS Bastian (CVE-37) (ký hiệu lườn ban đầu AVG-37 và sau đó là ACV-37) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Bogue, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Bastian được đặt lườn vào ngày 25 tháng 8 năm 1942 tại xưởng đóng tàu của hãng Seattle-Tacoma ShipbuildingTacoma, Washington, và được hạ thủy vào ngày 15 tháng 7 năm 1942. Bastian được chuyển cho Anh Quốc vào ngày 4 tháng 8 năm 1943 theo chương trình Cho thuê-cho mượn, được đổi tên thành HMS Trumpeter (D09), và đã phục vụ trong chiến tranh như một chiếc thuộc lớp Ameer.

Vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, máy bay thuộc Phi đội 846 Không lực Hải quân Hoàng gia, gồm tám chiếc Avenger và bốn chiếc Wildcat xuất phát từ Trumpeter, đã góp mặt vào đội hình 44 máy bay trong cuộc tấn công căn cứ U-boat tại Kilbotn thuộc Na Uy, tiêu diệt được nhiều tàu đối phương, bao gồm tàu tiếp liệu tàu ngầm "Black Watch" và tàu ngầm U-711.

Sau chiến tranh, Trumpeter được hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 4 năm 1946, được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân ngày 19 tháng 6 năm 1946, rồi được bán để hoạt động hàng hải thương mại tư nhân dưới tên gọi Alblasserdijk, sau đó đổi thành Irene Valmas. Nó được tháo dỡ tại Tây Ban Nha vào năm 1971.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Tàu Kiểu C3-S-A1